 |
Đại lộ Thăng Long, một trong những công trình lớn, hiện đại đã phát huy hiệu quả rõ nét. Ảnh: Bá Hoạt |
(HNM) - Ngày 1 tháng 8 năm nay, tròn
10 năm thực hiện Nghị quyết số 15/2008/QH12 của Quốc hội khóa XII về việc điều
chỉnh địa giới hành chính TP Hà Nội qua việc mở rộng, hợp nhất toàn bộ diện
tích và dân số tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc và bốn xã Đông
Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, nâng
diện tích TP Hà Nội từ 920km2 lên 3.344km2; dân số từ 4,6 triệu lên 6,4 triệu
người. Chặng đường 10 năm so với lịch sử của Thủ đô văn hiến hơn nghìn năm tuổi
là ngắn, nhưng với những nhiệm vụ và thách thức mà Thủ đô đã vượt qua thì đó là
một thời kỳ hết sức quan trọng.
Nhìn lại quá trình phát triển
của Thăng Long - Hà Nội, đây là lần mở rộng quy mô Thủ đô lớn nhất trong lịch sử.
Một quyết định mang tầm vóc lớn, có ảnh hưởng và tác động lâu dài và nhiều mặt
đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của Thủ đô.
Ý thức sâu sắc và đầy đủ
trách nhiệm trước trung ương và cả nước, ngay từ những ngày đầu triển khai Nghị
quyết số 15 của Quốc hội, Đảng bộ TP Hà Nội đã xác định quyết tâm thực hiện Nghị
quyết với phương châm “Đoàn kết, hợp tác, trách nhiệm”, tất cả vì công việc
chung, vì sự nghiệp xây dựng và phát triển Thủ đô của đất nước. Ngay sau khi Quốc
hội biểu quyết thông qua Nghị quyết, lãnh đạo cấp ủy hai Đảng bộ Hà Nội và Hà
Tây đã triển khai hết sức khẩn trương hàng trăm, hàng nghìn công việc. Trước
tiên là tiến hành hợp nhất tổ chức bộ máy, sắp xếp bố trí cán bộ trong toàn bộ
hệ thống chính trị, một công việc quan trọng và đầy khó khăn nhằm bảo đảm sự vận
hành thông suốt từ ngày 1-8-2008 cho mọi hoạt động của đời sống xã hội, của
nhân dân, của doanh nghiệp.
Tiếp đến là việc nhất thể hóa
các cơ chế, chính sách của bốn địa phương đã ban hành trước đó; rà soát, khớp nối
các quy hoạch, các dự án, tạo hành lang pháp lý thống nhất cho việc điều hành,
quản lý sau khi hợp nhất. Thành công hết sức quan trọng là sau thời điểm hợp nhất,
mọi công việc của thành phố từ lớn đến nhỏ, đơn giản đến phức tạp, đều được vận
hành và giải quyết suôn sẻ; bộ máy, biên chế không phình ra; trụ sở các cơ
quan, đơn vị, cùng toàn bộ cơ sở vật chất của các địa phương hợp nhất được bố
trí sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm... Nội bộ lãnh đạo từ thành phố đến các
cấp, các ngành luôn đoàn kết, thống nhất, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá
nhân, ra sức phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ.
Sau 10 năm hợp nhất, kinh tế,
xã hội Thủ đô tiếp tục phát triển, đạt mức tăng trưởng khá cao; cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực; các ngành dịch vụ, công nghiệp, xây dựng, nông
- lâm - thủy sản phát triển toàn diện. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa của Thủ đô tiếp tục hoàn thiện. Việc hợp tác, liên kết phát triển
kinh tế vùng được quan tâm, gắn với nâng cao năng lực cạnh tranh, phát huy thế
mạnh ở từng địa phương và trong toàn vùng. Thành phố đã tăng cường đầu tư kết cấu
hạ tầng cả ở nội và ngoại thành; giữa Hà Nội với các địa phương trong vùng.
Liên kết và hợp tác với các tỉnh, thành phố trong cả nước được mở rộng.
Tăng trưởng GRDP giai đoạn
2008-2017 bình quân đạt 7,4%/năm; trong đó dịch vụ tăng 7,43%, công nghiệp -
xây dựng tăng 8,23%, nông nghiệp tăng 2,84%; thu nhập bình quân đầu người năm
2017 là 86 triệu đồng, tương đương 3.910 USD/người, gấp 2,3 lần so với mức
1.697 USD/người vào năm 2008 là năm đầu hợp nhất. Thu ngân sách tăng bình quân
15,76%/năm, đến năm 2017 đạt 212.276 tỷ đồng, gấp 3 lần năm 2008. Thành phố đã
tham mưu cho Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TƯ “Về phương hướng, nhiệm
vụ phát triển Thủ đô giai đoạn 2011-2020”; Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến
lược, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô, Quy hoạch chung
xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Đặc biệt, việc Quốc
hội thông qua Luật Thủ đô đã tạo điều kiện cho Hà Nội có được những cơ chế,
chính sách đặc thù trên một số lĩnh vực, dù chưa đáp ứng một cách đầy đủ yêu cầu
trước mắt và lâu dài, nhưng cũng giúp cho Thủ đô thuận lợi hơn trong công tác
quản lý, điều hành. Đây là những định hướng rất quan trọng để Thủ đô phát triển
nhanh, toàn diện và bền vững.
Các lĩnh vực xây dựng, quản
lý, phát triển đô thị được đặc biệt chú trọng và có nhiều chuyển biến, tiến bộ
rõ rệt. Nhiều năm liền thành phố chọn chủ đề “Năm kỷ cương hành chính”, “Năm trật
tự và văn minh đô thị” để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Đến nay, tiếng
kêu ca, phàn nàn trong doanh nghiệp và nhân dân đã giảm nhiều. Thành phố đã huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đẩy mạnh đầu tư phát triển đồng bộ
và từng bước hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. Hàng loạt dự
án lớn, hiện đại đã được hoàn thành như: Nhà ga T2 Sân bay quốc tế Nội Bài; đường
Vành đai 3 trên cao, đường Nhật Tân - Nội Bài, đường 5 kéo dài; một số cây cầu
mới: Nhật Tân, Vĩnh Tuy, Vĩnh Thịnh, Đông Trù và 7 cầu vượt đã được hoàn thành,
góp phần đáng kể giảm ùn tắc giao thông khu vực nội đô. Thành phố đã triển khai
thi công các tuyến đường sắt đô thị Hà Đông - Cát Linh, Nhổn - Ga Hà Nội;
nghiên cứu đề xuất, triển khai tuyến Nam Thăng Long - Trần Hưng Đạo; đã hoàn
thành đưa vào khai thác, sử dụng nhiều khu đô thị, trung tâm thương mại mới, hiện
đại.
Cùng hướng tới mục tiêu xây dựng
Thủ đô văn minh, hiện đại, công tác xây dựng nông thôn mới cũng được tập trung
chỉ đạo và đạt được kết quả nổi bật, thu hẹp khoảng cách đời sống giữa nông thôn
và thành thị. Trong 10 năm qua, thành phố đã huy động bình quân khoảng 1.800 tỷ
đồng/năm cho đầu tư xây dựng nông thôn mới. Thu nhập bình quân đầu người ở khu
vực này tiếp tục tăng lên; tới hết năm 2017, ước đạt 38 triệu đồng/người/năm, gấp
3 lần năm 2008 (13 triệu đồng). Tiếp theo Đan Phượng, các huyện Hoài Đức, Đông
Anh, Thanh Trì lần lượt được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Việc dồn điền,
đổi thửa, một việc rất quan trọng nhưng cũng vô cùng khó khăn, song nhờ sự tập
trung chỉ đạo và quyết tâm cao của cán bộ và nhân dân, đã đạt trên 97% những diện
tích có thể dồn đổi, tạo tiền đề phát triển sản xuất hàng hóa, ứng dụng công
nghệ cao, thâm canh tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Nhiều mô hình kinh tế hộ, kinh tế trang trại sản xuất, chăn nuôi tập trung, trồng
hoa, trồng cây ăn quả đem lại thu nhập vài ba tỷ đồng trên một héc ta.
Đời sống văn hóa, tinh thần của
các tầng lớp nhân dân Thủ đô được cải thiện rõ rệt. Thành phố đã quan tâm đầu
tư, hoàn thiện hệ thống các thiết chế văn hóa và bảo tồn, tôn tạo, nghiên cứu,
giới thiệu, quảng bá, phát huy giá trị di sản văn hóa của Thủ đô. Xử lý tốt mối
quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trên địa bàn. Các hoạt động văn học, nghệ
thuật, giao lưu văn hóa trong nước, khu vực và quốc tế tiếp tục mở rộng. Nhiều
phong trào, hoạt động xây dựng mô hình văn hóa ở cơ sở được triển khai đạt kết
quả tốt; văn hóa các vùng miền tiếp tục phát huy và phát triển hài hòa làm
phong phú thêm truyền thống văn hóa Thăng Long - Hà Nội. Nếp sống văn hóa, văn
minh đô thị, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội của thành phố luôn là
những chủ trương và việc làm đi đầu, dẫn đầu cả nước theo hướng tiến bộ, văn
minh. Thành phố cũng là địa phương đầu tiên trong cả nước đã xây dựng và triển
khai Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức Thủ đô và Quy tắc ứng xử
nơi công cộng, đưa vào giảng dạy bộ tài liệu Giáo dục nếp sống thanh lịch, văn
minh cho học sinh Thủ đô... góp phần nâng cao nhận thức, khơi dậy niềm tự hào của
người Hà Nội.
An ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô được giữ vững trong mọi tình huống. Hà Nội là
Thủ đô an ninh, an toàn, bảo đảm cuộc sống, sinh hoạt bình yên cho người dân Thủ
đô và du khách trong, ngoài nước. Quốc phòng và quân sự địa phương được củng cố,
tăng cường. Quan hệ, liên kết với các tỉnh, các vùng kinh tế trọng điểm trong
nước và nước ngoài; quan hệ đối ngoại, giao lưu hợp tác với thủ đô các nước,
các tổ chức quốc tế được đẩy mạnh theo hướng mở rộng hơn, sâu sắc hơn. Hiện nay
Thủ đô Hà Nội có quan hệ hợp tác, hữu nghị với hơn 100 thành phố và thủ đô các
nước.
Đảng bộ Hà Nội được Trung
ương ghi nhận là Đảng bộ gương mẫu, đi đầu, có nhiều việc làm chủ động, sáng tạo
trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), gắn với đẩy mạnh học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị
và Chương trình 01 của Thành ủy, nâng cao ý thức tự phê bình và phê bình, thực
hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung dân chủ, lề lối làm việc; tăng cường đoàn kết,
quyết tâm sửa chữa, khắc phục hạn chế, khó khăn; nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm
vụ. Thành ủy Hà Nội là nơi đầu tiên tổ chức lấy phiếu tín nhiệm cán bộ lãnh đạo,
quản lý. Qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, Thành ủy đã ban hành nhiều chỉ
thị, nghị quyết để triển khai thực hiện trong toàn Đảng bộ, như Nghị quyết 09 về
tăng cường công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nước; Chỉ thị số 11 của Ban Thường vụ Thành ủy về tiếp tục thực
hiện nếp sống văn minh trong việc cưới; Đề án số 06 về kiện toàn, sắp xếp tổ chức
Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị trên địa bàn dân cư, tổ dân phố,
thôn, xóm ở xã, phường, thị trấn thuộc TP Hà Nội; chủ trương giảm bớt các đoàn
đi công tác nước ngoài; hạn chế xây dựng, đầu tư, mua sắm công...
Những thành tựu to lớn và
toàn diện đạt được trong 10 năm qua là minh chứng hết sức sinh động và đầy thuyết
phục về tầm nhìn và tính đúng đắn của quyết định mang tính lịch sử của Đảng và
Quốc hội. Đó cũng là kết quả của sự nỗ lực to lớn của Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân Thủ đô, sự đoàn kết, nhất trí cao trong hệ thống chính trị. Trong đó cần
đặc biệt nhấn mạnh thành công của công tác tổ chức, cán bộ của thành phố, một
nhiệm vụ vô cùng quan trọng và khó khăn, song thành phố đã tổ chức thực hiện với
một tinh thần nghiêm túc, dân chủ, công tâm, trong sáng. Đó cũng chính là nhân
tố quan trọng bảo đảm cho những thành công tiếp theo trong 10 năm qua.
Bên cạnh những kết quả đạt được,
những bài học thành công, trong quá trình triển khai công việc 10 năm qua, Hà Nội
cũng còn những việc làm chưa tốt, hoặc còn có thiếu sót, khuyết điểm. Đó là,
kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh Thủ đô; chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh nhìn chung còn thấp. Một số tiêu chí cơ bản về tái cơ
cấu kinh tế thực hiện chưa đạt yêu cầu đề ra; kinh tế tri thức phát triển chậm;
chưa phát huy được thế mạnh các nguồn lực về vốn, khoa học và công nghệ, nguồn
nhân lực chất lượng cao và thị trường lao động để tập trung cho đầu tư phát triển.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà
nước còn gặp không ít những vướng mắc về cơ chế, chính sách. Nhiều mô hình sản
xuất nông nghiệp hàng hóa theo hướng tập trung, chuyên canh chậm được nhân rộng.
Hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò đầu tàu, điều phối kinh tế vùng hiệu quả còn
thấp. Công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý đô thị, đất đai, môi trường... chưa
đáp ứng được yêu cầu xây dựng, phát triển Thủ đô văn minh, hiện đại. Các lĩnh vực
hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế có mặt còn chưa đáp ứng tốt nhu cầu và yêu cầu
của nhân dân...
Trên cơ sở những kết quả và
thành tựu to lớn của Thủ đô và đất nước 10 năm qua, cùng với quá trình mở cửa,
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước, trong những năm tới Thủ đô Hà
Nội sẽ có nhiều cơ hội để phát triển mạnh mẽ về mọi mặt. Trên con đường đi tới,
mặc dù sẽ còn không ít khó khăn, thách thức mới đặt ra, song, điều cốt yếu và
quan trọng là những chủ trương lớn, những tiền đề quan trọng nhất về chính trị,
kinh tế, xã hội bảo đảm cho sự phát triển lâu dài và bền vững của Thủ đô đều đã
được xác định, được cụ thể hóa thành các mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng phát
triển Thủ đô, ghi rõ trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVI,
nhiệm kỳ 2015-2020.
Phát huy truyền thống văn hiến,
anh hùng, tinh thần đoàn kết, thống nhất cao, sự chủ động và sáng tạo, Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân Thủ đô Hà Nội sẽ hoàn thành và hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ xây dựng, phát triển Thủ đô giàu đẹp, văn minh, hiện đại, xứng đáng với vai
trò, vị thế của Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, anh hùng, đáp ứng lòng mong đợi
của Đảng, Nhà nước, của nhân dân Thủ đô và cả nước.
Tiến sĩ PHẠM QUANG NGHỊ
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội