 |
Các bị cáo nghe tuyên án |
Sau 2 tuần xét xử, sáng nay
(22/1), Hội đồng xét xử (HĐXX) Tòa án nhân dân TP Hà Nội đã ra phán quyết đối với
các bị cáo trong vụ án ông Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm. Theo
phán quyết của HĐXX, ông Đinh La Thăng (SN 1960, nguyên
Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam - PVN) lĩnh án 13 năm tù.
Ông Trịnh Xuân Thanh (SN 1966, nguyên Chủ tịch HĐQT, Tổng giám
đốc, Tổng công ty Xây lắp Dầu khí Việt Nam - PVC) lĩnh án 14 năm tù tội Cố ý
làm trái, tù chung thân tội Tham ô tài sản; tổng hợp hình phạt cho cả hai tội
là tù chung thân.
Trước khi tuyên án, HĐXX
nhận định, đây là một vụ án kinh tế tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng. Cụ thể: Năm
2010, do việc đầu tư dàn trải, không hiệu quả, dẫn tới tình hình tài chính của
PVC lâm vào tình trạng mất cân đối nghiêm trọng. Thay vì tìm các giải pháp căn
cơ để tháo gỡ khó khăn cho PVC, PVN lại giao PVC gánh vác thêm các khoản đầu tư
có nợ xấu và thua lỗ của 5 dự án tại PVFC với giá trị lên tới 793 tỷ đồng.
Tính đến năm 2011, PVC đã đầu tư tài
chính vào 43 đơn vị với tổng giá trị đầu tư 3.460 tỷ đồng/2.500 tỷ đồng vốn điều
lệ, làm mất cân đối dòng tiền đầu tư gần 1.000 tỷ đồng (theo báo cáo tài
chính năm 2009, năm 2010 đã được kiểm toán của PVC).
HĐXX cho rằng ông Đinh La Thăng biết
rõ PVC đã gặp khó khăn rất lớn về tài chính và chưa có năng lực, kinh nghiệm
làm tổng thầu thi công những dự án nhiệt điện lớn.
Trong khi đó, Nghị quyết số
9396/NQ-DKVN của HĐTV PVN phê duyệt phương án thành lập liên doanh tổng thầu
EPC dự án Nhiệt điện Thái Bình 2, theo đó PVC là thành viên đứng đầu liên danh,
nhà thầu nước ngoài tham gia được lựa chọn theo hình thức đấu thầu quốc tế.
Dù vậy, bị cáo Thăng vẫn quyết định lựa
chọn PVC làm tổng thầu EPC Nhiệt điện Thái Bình 2 - một công trình trọng điểm
quốc gia theo hình thức chỉ định thầu. Mặt khác, trong khi dự án đầu tư hiệu chỉnh
chưa được phê duyệt, chưa có thiết kế FEED, tổng dự toán, thiết kế bản vẽ thi
công, hồ sơ yêu cầu, hồ sơ dự thầu và một loạt các thủ tục pháp lý khác có liên
quan, bị cáo Đinh La Thăng vẫn chỉ đạo cấp dưới ký kết hợp đồng số 33 và hợp đồng
chuyển đổi chủ thể số 4194 với giá trị tạm tính là 1,2 triệu USD.
Việc chọn nhà thầu và ký hợp đồng EPC
số 33 trên là làm trái điều 41, Nghị định số 85/2009/NĐ-CP của Chính phủ hướng
dẫn thi hành luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo luật Xây dựng; Điều
17 Nghị định số 12/2009- NĐ-CP của Chính phủ về Quản lý dự án đầu tư xây dựng;
Điều 9, 10 Nghị định số 48/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định về hợp đồng trong
hoạt động xây dựng.
HĐXX còn cho rằng, hợp đồng 33 giữa
PVPower và PVC được lập, ký không đúng quy định của pháp luật, có nhiều nội
dung không có, nhất là không có Điều 14 về giá trị hợp đồng và thanh toán;
không có phụ lục 2, không có thỏa thuận hợp đồng...
Các hợp đồng được lập và ký chưa được
HĐTV của chủ đầu tư phê duyệt và Ban QLDA Thái Bình 2 báo cáo PVN vẫn đang đàm
phán và chưa đi đến thống nhất tỷ lệ tạm ứng hợp đồng với PVC, nhưng theo đề
nghị của PVC, PVN đã chuyển 8.268.000 USD và hơn 1.317 tỷ đồng cho Ban QLDA
Thái Bình 2 để tạm ứng cho PVC hơn 6,6 triệu USD và hơn 1.312 tỷ đồng.
Việc tạm ứng tiền theo hợp đồng 33 và
hợp đồng 4194 là làm trái khoản 2, khoản 3, điều 3, Nghị định số 112/2009/NĐ-CP
của Chính phủ quy định về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình; khoản 2,
điều 6 Nghị định số 48/2010/NĐ- CP của Chính phủ về hợp đồng trong hoạt động
xây dựng; khoản 2, khoản 4, điều 10, Quyết định số 190/QĐ-TTg của Thủ tướng phê
duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của PVN.
Cũng theo HĐXX, sau khi PVC nhận tiền
tạm ứng, Trịnh Xuân Thanh và thuộc cấp đã sử dụng hơn 1.115 tỷ đồng vào mục
đích khác, không đưa vào dự án Nhiệt điện Thái Bình 2.
Việc sử dụng tiền tạm ứng của dự án
Thái Bình 2 làm trái khoản 2, điều 31 Nghị định số 9/2009/NĐ-CP của Chính phủ
quy định về hợp đồng trong hoạt động xây dựng.
Hội đồng xét xử kết luận: Hành vi của
bị cáo Trịnh Xuân Thanh có đủ dấu hiệu phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà
nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” theo quy định tại khoản 3, điều
165, bộ luật Hình sự năm 1999.
PVC tại thời điểm được chỉ định thầu
trái pháp luật, ký kết hợp đồng EPC số 33 và hợp đồng EPC số 4194 khi chưa đủ
điều kiện, tạm ứng vốn trái phép là một doanh nghiệp đang thâm hụt tài chính,
không đủ kinh nghiệm thực hiện các dự án lớn. Điều này đã được các bị cáo Vũ Đức
Thuận, Trịnh Xuân Thanh, Nguyễn Mạnh Tiến, Phạm Tiến Đạt khẳng định trước tòa,
cũng đã được Ban Quản lý dự án và PVPower báo cáo.
Cũng cùng thời điểm đó, PVC được PVN
chỉ định thầu xây dựng một số dự án khác như Ethanol Dung Quất, Ethanol Phú Thọ,
Xơ sợi Đình Vũ… cho đến nay đã được Chính phủ xác định thất thoát thua lỗ hàng
ngàn tỷ đồng. Mỗi dự án như vậy có nguy cơ trở thành một vụ án, lãnh đạo PVC
đang phải đối mặt với nguy cơ điều tra, truy tố, xét xử trong vụ án hình sự
khác.
Căn cứ vào hành vi phạm tội của các bị
cáo, HĐXX đã tuyên phạt: Đinh La Thăng (SN 1960, nguyên Chủ tịch
HĐTV Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam - PVN): 13 năm tù. Trịnh Xuân
Thanh (SN 1966, nguyên Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc, Tổng công ty
Xây lắp Dầu khí Việt Nam - PVC): 14 năm tù tội Cố ý làm trái; tù chung thân tội
Tham ô tài sản. Tổng hợp hình phạt cho cả hai tội là tù chung thân. Phùng Đình
Thực (SN 1954, nguyên Tổng giám đốc PVN): 9 năm tù. Nguyễn Quốc
Khánh (1960, nguyên Phó tổng giám đốc PVN): 9 năm tù. Nguyễn Xuân
Sơn (1962, nguyên Phó tổng giám đốc PVN): 9 năm tù. Vũ Đức Thuận (1971,
nguyên Tổng giám đốc PVC: 7 năm tù tội Cố ý làm trái; 15 năm tội Tham ô tài sản.
Ninh Văn Quỳnh (SN 1958, nguyên Kế toán trưởng, kiêm Trưởng Ban tài chính
kế toán và Kiểm toán PVN): 7 năm tù. Lê Đình Mậu (SN 1972, nguyên Phó trưởng
Ban Kế toán và Kiểm toán PVN: 4 năm, 6 tháng tù. Vũ Hồng Chương (1953,
nguyên Trưởng Ban quản lý Dự án điện lực Dầu khí Thái Bình 2): 3 năm tù treo.
Trần Văn Nguyên (1979, nguyên Kế
toán trưởng Ban quản lý dự án Điện lực dầu khí Thái Bình 2): 30 tháng tù treo.
Nguyễn Ngọc Quý (1953, nguyên Phó chủ tịch HĐQT PVC): 6 năm tù. Nguyễn Mạnh
Tiến (1966, nguyên Phó tổng giám đốc PVC): 6 năm tù. Phạm Tiến Đạt (1979,
nguyên Kế toán trưởng PVC): 4 năm, 6 tháng tù. Trương Quốc Dũng (SN 1982,
nguyên Phó TGĐ đốc PVC): 17 tháng tù. Nguyễn Anh Minh (1977, nguyên Phó Tổng
PVC): 16 năm tù. Bùi Mạnh Hiển (1976, nguyên Chánh Văn phòng PVC): 10 năm tù.
Lương Văn Hòa (1980, nguyên Giám đốc Ban điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch
thuộc Tổng công ty cổ phần Xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC): 10 năm tù. Nguyễn
Thành Quỳnh (1973, nguyên Giám đốc Kỹ thuật Công nghệ, Tổng công ty CP Miền
Trung - công ty cổ phần Đà Nẵng): 8 năm tù. Lê Thị Anh Hoa (1979, nguyên Giám đốc
Công ty TNHH MTV Quỳnh Hoa): 3 năm tù treo.
Nguyễn Đức Hưng (1983, nguyên Trưởng
phòng Tài chính kế toán, Ban điều hành Vũng Áng - Quảng Trạch): 3 năm tù treo.
Trả tự do cho bị cáo tại tòa nếu bị cáo không phạm thêm tội khác. Lê Xuân Khánh
(1976, nguyên Trưởng phòng kinh tế Kế hoạch, Ban điều hành dự án Vũng Áng - Quảng
Trạch): 3 năm tù treo. Trả tự do tại tòa nếu bị cáo không phạm thêm tội khác.
Nguyễn Lý Hải (1964, nguyên Trưởng phòng kỹ thuật, Ban điều hành dự án Vũng Áng
- Quảng Trạch): 3 năm tù treo. Trả tự do tại tòa cho bị cáo nếu bị cáo không phạm
thêm tội khác.
Là một vụ án kinh tế tham nhũng đặc
biệt nghiêm trọng, tuy nhiên trong toàn bộ quá trình điều tra, xét xử, hầu hết
các bị cáo đã thành khẩn khai báo, hợp tác với cơ quan điều tra. Nhiều bị cáo
là chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực dầu khí, xây dựng, tài chính, được đào tạo
bài bản, có quá trình cống hiến, do đó HĐXX đã cân nhắc áp dụng các tình tiết
giảm nhẹ được quy định tại điều 51 bộ luật Hình sự. Chính bởi vậy, mà hầu hết
các bị cáo đều nhận bản án thấp hơn so với bản án mà Viện Kiểm sát đã đề nghị
trước đó. Trong đó 03 bị cáo được Tòa án tuyên trả tự do ngay tại tòa.
Có thể nói, bản án mà HĐXX đã tuyên với
các bị cáo trong vụ án này là một bản án nghiêm khắc, nhưng có lý, có tình, nó
không chỉ bảo đảm sự thượng tôn của pháp luật mà còn thể hiện giá trị nhân văn,
tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật nhà nước ta đối với những người biết ăn
năn hối cải, thừa nhận lỗi lầm của mình.
Khai
Tâm